Tổng hợp các thuốc đích điều trị ung thư phổi không phải tế bào nhỏ

  28/08/2020

Khi các nhà nghiên cứu đã tìm hiểu thêm về những thay đổi trong các tế bào ung thư phổi không tế bào nhỏ (NSCLC) giúp chúng phát triển, họ đã phát triển các loại thuốc để nhắm mục tiêu cụ thể những thay đổi này. Thuốc nhắm mục tiêu hoạt động khác với thuốc hóa trị. Đôi khi chúng có tác dụng khi không dùng thuốc hóa trị và thường có các tác dụng phụ khác nhau. Tại thời điểm này, các loại thuốc đích thường được sử dụng nhất cho các bệnh ung thư phổi giai đoạn muộn, cùng với hóa trị hoặc sử dụng đơn độc.

Thuốc đích ức chế hình thành mạch

Để các khối u phát triển, chúng cần hình thành các mạch máu mới để nuôi dưỡng chúng. Quá trình này được gọi là quá trình hình thành mạch . Một số loại thuốc đích, được gọi là thuốc ức chế hình thành mạch, ngăn chặn sự phát triển của mạch máu mới này:

Bevacizumab (Avastin) được sử dụng để điều trị NSCLC nâng cao. Nó là một kháng thể đơn dòng (một phiên bản nhân tạo của một protein hệ thống miễn dịch cụ thể) nhắm vào yếu tố tăng trưởng nội mô mạch máu (VEGF), một loại protein giúp hình thành các mạch máu mới. Thuốc này thường được sử dụng với hóa trị trong một thời gian. Sau đó, nếu ung thư đáp ứng, có thể ngừng hóa trị và tự tiêm bevacizumab cho đến khi ung thư bắt đầu phát triển trở lại.

Ramucirumab (Cyramza) cũng có thể được sử dụng để điều trị NSCLC nâng cao. Thuốc này là một kháng thể đơn dòng nhắm vào thụ thể VEGF (protein). Nó giúp ngăn chặn sự hình thành các mạch máu mới. Thuốc này thường được kết hợp với hóa trị, thường là sau khi một phương pháp điều trị khác ngừng hoạt động.

Một trong hai loại thuốc này cũng có thể được sử dụng cùng với thuốc đích erlotinib (xem bên dưới) như là phương pháp điều trị đầu tiên ở những người có tế bào ung thư có đột biến gen EGFR nhất định .

Tác dụng phụ của thuốc ức chế hình thành mạch

Các tác dụng phụ thường gặp của những loại thuốc này bao gồm:

Huyết áp cao

Mệt mỏi (mệt mỏi)

Sự chảy máu

Số lượng bạch cầu thấp (tăng nguy cơ nhiễm trùng)

Nhức đầu

Lở miệng

Ăn mất ngon

Bệnh tiêu chảy

Các tác dụng phụ hiếm gặp nhưng có thể nghiêm trọng có thể bao gồm cục máu đông, chảy máu nghiêm trọng, lỗ (được gọi là lỗ thủng) trong ruột, các vấn đề về tim và chậm lành vết thương. Nếu một lỗ thủng hình thành trong ruột, nó có thể dẫn đến nhiễm trùng nặng và có thể phải phẫu thuật để khắc phục.

Do nguy cơ chảy máu, những loại thuốc này thường không được sử dụng cho những người đang ho ra máu hoặc những người đang dùng thuốc được gọi là thuốc làm loãng máu. Nguy cơ chảy máu nghiêm trọng trong phổi cao hơn ở những bệnh nhân mắc loại tế bào vảy của NSCLC, đó là lý do tại sao các hướng dẫn hiện hành không khuyến cáo sử dụng bevacizumab ở những người bị loại ung thư phổi này.

Thuốc đích nhắm vào các tế bào có thay đổi gen EGFR

Thụ thể yếu tố tăng trưởng biểu bì (EGFR) là một protein trên bề mặt tế bào. Nó thường giúp các tế bào phát triển và phân chia. Một số tế bào NSCLC có quá nhiều EGFR, khiến chúng phát triển nhanh hơn. Các loại thuốc được gọi là chất ức chế EGFR có thể chặn tín hiệu từ EGFR thông báo cho các tế bào phát triển. Một số loại thuốc này có thể được sử dụng để điều trị NSCLC nâng cao.

Chất ức chế EGFR được sử dụng trong NSCLC có đột biến gen EGFR

Erlotinib (Erlonat): Tham khảo thông tin về thuốc Erlonat tại đây

Afatinib (Gilotrif)

Gefitinib (Geftinat): Tham khảo thông tin thuốc tại đây

Osimertinib (Osimert): Tham khảo thông tin thuốc Osimert tại đây Thuốc Osimert điều trị ung thư phổi

Dacomitinib (Vizimpro)

Những loại thuốc này thường được sử dụng một mình (không dùng hóa trị liệu) như là phương pháp điều trị đầu tiên cho các NSCLC nâng cao có một số đột biến trong gen EGFR . Erlotinib cũng có thể được sử dụng cùng với một loại thuốc nhắm mục tiêu ảnh hưởng đến sự phát triển mạch máu mới (xem ở trên). Đột biến gen EGFR phổ biến hơn ở phụ nữ, người châu Á và những người không hút thuốc (hoặc hút thuốc nhẹ).

Tất cả các loại thuốc này đều được dùng dưới dạng thuốc viên.

Chất ức chế EGFR nhắm vào các tế bào có đột biến T790M

Thuốc ức chế EGFR thường có thể thu nhỏ khối u trong vài tháng hoặc hơn. Nhưng cuối cùng những loại thuốc này bị kháng đối với hầu hết mọi người, thường là do các tế bào ung thư phát triển một đột biến khác trong gen EGFR . Một đột biến như vậy được gọi là T790M. Osimertinib (Tagrix) là chất ức chế EGFR hoạt động chống lại các tế bào mang đột biến T790M.

Tham khảo thêm bài viết cụ thể về Thuốc Tagrix điều trị ung thư phổi tại đây

thuốc Tagrix cho bệnh nhân có đột biến gan T790M

Thuốc Tagrix cho bệnh nhân có đột biến gan T790M

Các bác sĩ hiện thường lấy một sinh thiết khác khi chất ức chế EGFR ngừng hoạt động để xem liệu khối u của bệnh nhân có phát triển đột biến T790M hay không.

Chất ức chế EGFR được sử dụng cho NSCLC tế bào vảy

Necitumumab (Portrazza) là một kháng thể đơn dòng (một phiên bản do con người tạo ra của một protein hệ thống miễn dịch) nhằm vào EGFR. Nó có thể được sử dụng với hóa trị liệu như là phương pháp điều trị đầu tiên ở những người bị NSCLC tế bào vảy tiên tiến. Thuốc này được truyền vào tĩnh mạch (IV).

Tác dụng phụ của chất ức chế EGFR

Các tác dụng phụ thường gặp của tất cả các chất ức chế EGFR bao gồm:

Các vấn đề về da

Bệnh tiêu chảy

Lở miệng

Ăn mất ngon

Các vấn đề về da có thể bao gồm phát ban giống mụn trên mặt và ngực, trong một số trường hợp có thể dẫn đến nhiễm trùng da.

Những loại thuốc này cũng có thể gây ra các tác dụng phụ nghiêm trọng hơn, nhưng ít phổ biến hơn. Ví dụ, thuốc hoại tử có thể làm giảm mức độ một số khoáng chất trong máu, có thể ảnh hưởng đến nhịp tim và trong một số trường hợp có thể đe dọa tính mạng.

Thuốc đích nhắm vào các tế bào có thay đổi gen ALK

Khoảng 5% NSCLC có sự sắp xếp lại trong một gen được gọi là ALK . Sự thay đổi này thường thấy ở những người không hút thuốc (hoặc những người hút thuốc nhẹ), những người trẻ hơn và những người mắc bệnh ung thư biểu mô tuyến phụ của NSCLC. Sự sắp xếp lại gen ALK tạo ra một protein ALK bất thường khiến các tế bào phát triển và lan rộng. Các loại thuốc nhắm vào protein ALK bất thường bao gồm:

Crizotinib (Xalkori)

Ceritinib (Zykadia)

Alectinib (Alecensa)

Brigatinib (Alunbrig)

Lorlatinib (Lorbrena)

Những loại thuốc này thường có thể thu nhỏ khối u ở những người bị ung thư phổi giai đoạn muộn có sự thay đổi gen ALK . Mặc dù chúng có thể giúp ích sau khi hóa trị hết tác dụng, chúng thường được sử dụng thay vì hóa trị ở những người bị ung thư có sự sắp xếp lại gen ALK .

Các loại thuốc này được dùng dưới dạng thuốc viên.

thuốc crizonix

Thuốc Crizonix cho bệnh nhân đột biến gen ALK

Tác dụng phụ của thuốc ức chế ALK

Các tác dụng phụ thường gặp của thuốc ức chế ALK bao gồm:

Buồn nôn và ói mửa

Bệnh tiêu chảy

Táo bón

Mệt mỏi

Thay đổi tầm nhìn

Các tác dụng phụ khác cũng có thể xảy ra với một số loại thuốc này. Một số tác dụng phụ có thể nghiêm trọng, chẳng hạn như viêm (sưng) ở phổi hoặc các bộ phận khác của cơ thể, tổn thương gan, tổn thương thần kinh ( bệnh thần kinh ngoại vi ) và các vấn đề về nhịp tim.

Thuốc đích nhắm vào các tế bào có thay đổi gen ROS1

Khoảng 1% đến 2% NSCLC có sự sắp xếp lại trong một gen được gọi là ROS1 . Sự thay đổi này thường thấy nhất ở những người có loại phụ ung thư biểu mô tuyến của NSCLC và những người có khối u cũng âm tính với đột biến ALK , KRAS và EGFR . Sự sắp xếp lại gen ROS1 tương tự như sự sắp xếp lại gen ALK và một số loại thuốc có thể hoạt động trên các tế bào bị thay đổi gen ALK hoặc ROS1. Thuốc nhắm vào protein ROS1 bất thường bao gồm:

Crizotinib (Xalkori)

Ceritinib (Zykadia)

Lorlatinib (Lorbrena)

Entrectinib (Rozlytrek)

Những loại thuốc này thường có thể thu nhỏ khối u ở những người bị ung thư phổi giai đoạn nặng có sự thay đổi gen ROS1 . Crizotinib hoặc ceritinib có thể được sử dụng như điều trị đầu tiên, thay vì hóa trị, và lorlatinib có thể được sử dụng khi crizotinib hoặc ceritinib đã ngừng hoạt động. Entrectinib có thể được sử dụng ở những người bị NSCLC di căn có thay đổi gen ROS1 .

Các loại thuốc này được dùng dưới dạng thuốc viên.

Tác dụng phụ của thuốc nhắm vào các tế bào có thay đổi gen ROS1

Các tác dụng phụ thường gặp của thuốc ức chế ROS1 bao gồm:

Chóng mặt

Bệnh tiêu chảy

Táo bón

Mệt mỏi

Thay đổi tầm nhìn

Các tác dụng phụ khác cũng có thể xảy ra với một số loại thuốc này. Một số tác dụng phụ có thể nghiêm trọng, chẳng hạn như viêm (sưng) ở phổi hoặc các bộ phận khác của cơ thể, tổn thương gan, tổn thương thần kinh (bệnh thần kinh ngoại vi) và các vấn đề về tim.

Thuốc đích nhắm vào các tế bào có thay đổi gen BRAF

Trong một số NSCLC, các tế bào có những thay đổi trong gen BRAF . Các tế bào có những thay đổi này tạo ra một protein BRAF bị thay đổi giúp chúng phát triển. Một số loại thuốc nhắm mục tiêu này và các protein liên quan:

Dabrafenib (Tafinlar) là một loại thuốc được biết đến như một chất ức chế BRAF , tấn công trực tiếp vào protein BRAF.

Trametinib (Mekinist) được biết đến như một chất ức chế MEK , vì nó tấn công các protein MEK liên quan.

Các loại thuốc này có thể được sử dụng cùng nhau để điều trị NSCLC di căn nếu nó có một loại thay đổi gen BRAF nhất định .

Những loại thuốc này được dùng dưới dạng thuốc viên hoặc viên nang mỗi ngày.

Tác dụng phụ của thuốc nhắm vào các tế bào có thay đổi gen BRAF

Các tác dụng phụ thường gặp có thể bao gồm dày da, phát ban, ngứa, nhạy cảm với ánh nắng mặt trời, nhức đầu, sốt, đau khớp, mệt mỏi, rụng tóc, buồn nôn và tiêu chảy.

Các tác dụng phụ ít phổ biến hơn nhưng nghiêm trọng có thể bao gồm chảy máu, các vấn đề về nhịp tim, các vấn đề về gan hoặc thận, các vấn đề về phổi, phản ứng dị ứng nghiêm trọng, các vấn đề về da hoặc mắt nghiêm trọng và tăng lượng đường trong máu.

Một số người được điều trị bằng những loại thuốc này phát triển ung thư da, đặc biệt là ung thư da tế bào vảy . Bác sĩ sẽ muốn kiểm tra da của bạn thường xuyên trong quá trình điều trị và trong vài tháng sau đó. Bạn cũng nên cho bác sĩ biết ngay lập tức nếu bạn nhận thấy bất kỳ sự phát triển mới hoặc các vùng bất thường trên da.

Thuốc đích nhắm vào các tế bào có thay đổi gen RET

Trong một tỷ lệ nhỏ NSCLCs, các tế bào có những thay đổi nhất định trong gen RET khiến chúng tạo ra bất thường từ protein RET. Protein bất thường này giúp các tế bào phát triển.

Selpercatinib (Retevmo) là một loại thuốc được biết đến như một chất ức chế RET . Nó hoạt động bằng cách tấn công protein RET. Thuốc này có thể được sử dụng để điều trị NSCLC di căn nếu tế bào ung thư có một số loại thay đổi gen RET .

Thuốc này được dùng bằng đường uống dưới dạng viên nang, thường hai lần một ngày.

Tác dụng phụ của thuốc ức chế RET

Các tác dụng phụ thường gặp của selpercatinib có thể bao gồm:

Khô miệng

Tiêu chảy hoặc táo bón

Huyết áp cao

Cảm thấy mệt

Sưng ở bàn tay hoặc bàn chân

Phát ban da

Lượng đường trong máu cao

Số lượng bạch cầu hoặc tiểu cầu trong máu thấp

Những thay đổi trong một số xét nghiệm máu khác

Các tác dụng phụ ít phổ biến hơn nhưng nghiêm trọng hơn có thể bao gồm tổn thương gan, phản ứng dị ứng, thay đổi nhịp tim, dễ chảy máu và các vấn đề về chữa lành vết thương.

Thuốc đích nhắm vào các tế bào có thay đổi gen MET

Trong một số NSCLC, các tế bào có những thay đổi trong gen MET khiến chúng tạo ra bất thường từ protein MET. Protein bất thường này giúp các tế bào phát triển và lan rộng.

Capmatinib (Tabrecta) là một loại thuốc được biết đến như một chất ức chế MET . Nó hoạt động bằng cách tấn công protein MET. Thuốc này có thể được sử dụng để điều trị NSCLC di căn nếu tế bào ung thư có một số loại thay đổi gen MET .

Thuốc này được dùng dưới dạng thuốc viên, thường là hai lần một ngày.

Tác dụng phụ của thuốc ức chế MET

Các tác dụng phụ thường gặp của capmatinib có thể bao gồm:

Sưng ở bàn tay hoặc bàn chân

Buồn nôn hoặc nôn mửa

Cảm thấy mệt mỏi hoặc yếu

Ăn mất ngon

Táo bón hoặc tiêu chảy

Những thay đổi trong một số xét nghiệm máu

Các tác dụng phụ ít phổ biến hơn nhưng nghiêm trọng hơn có thể bao gồm viêm (sưng) hoặc sẹo ở phổi, có thể gây khó thở, cũng như tổn thương gan.

Một số người có thể trở nên nhạy cảm hơn với ánh sáng mặt trời (hoặc các nguồn tia UV khác) trong khi điều trị bằng thuốc này, vì vậy điều quan trọng là phải bảo vệ bản thân trong khi điều trị (ví dụ: bằng cách sử dụng kem chống nắng hoặc mặc quần áo che da).

Thuốc đích nhắm vào các tế bào có thay đổi gen NTRK

Một số lượng rất nhỏ NSCLC có những thay đổi ở một trong các gen NTRK . Các tế bào có những thay đổi gen này có thể dẫn đến sự phát triển tế bào bất thường và ung thư. Larotrectinib (Vitrakvi)inib (Rozlytrek) nhắm mục tiêu và vô hiệu hóa các protein được tạo ra bởi các gen NTRK . Những loại thuốc này có thể được sử dụng cho những người bị ung thư phổi giai đoạn cuối vẫn đang phát triển bất chấp các phương pháp điều trị khác và khối u có sự thay đổi gen NTRK .

Những loại thuốc này được dùng dưới dạng thuốc viên, một hoặc hai lần mỗi ngày.

Tác dụng phụ của thuốc nhắm vào các tế bào có thay đổi gen NTRK

Các tác dụng phụ thường gặp bao gồm chóng mặt, mệt mỏi, buồn nôn, nôn, táo bón, tăng cân và tiêu chảy.

Các tác dụng phụ ít phổ biến hơn nhưng nghiêm trọng có thể bao gồm xét nghiệm gan bất thường, các vấn đề về tim và lú lẫn.

Tác giả bài viết: Dược sĩ Đỗ Thế Nghĩa, Đại Học Dược Hà Nội. Tư vấn Dược Sĩ: 0906297798

Bài viết có tham khảo thông tin từ website: https://www.cancer.org/cancer/lung-cancer/treating-non-small-cell/targeted-therapies.html

Bình luận

Tin tức mới Xem tất cả

Hà Nội: Số 45C Ngõ 143/34 Nguyễn Chính Quận Hoàng Mai Hà Nội
TP HCM: Số 184 Lê Đại Hành P15 Quận 11
Đặt hàng: 0972945305/ Tư vấn: 0906297798
Hotline: 0869966606